1.
Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước
Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh lớn lên và sống
trong nỗi đau của người dân mất nước, được sự giáo dục của gia đình, quê hương,
dân tộc về lòng yêu nước thương dân; sớm tham gia phong trào đấu tranh chống
Pháp; băn khoăn trước những thất bại của các sĩ phu yêu nước chống Pháp; ham học
hỏi, muốn tìm hiểu những tinh hoa văn hóa tiên tiến của các cuộc cách mạng dân
chủ tư sản ở châu Âu, muốn đi ra nước ngoài xem họ làm gì để trở về giúp đồng
bào thoát khỏi vòng nô lệ. Trong thời kỳ này, ở Hồ Chí Minh đã hình thành tư tưởng
yêu nước, thương dân, tha thiết bảo vệ những giá trị tinh thần truyền thống của
dân tộc, ham muốn học hỏi những tư tưởng tiến bộ của nhân loại.
2.
Thời kỳ từ năm 1911 - 1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
- Năm 1911, Nguyễn
Tất Thành rời Tổ quốc sang phương Tây tìm đường cứu nước.
- Từ năm 1911 - 1920
là thời kì Nguyễn Tất Thành bôn ba khắp các châu lục để tìm hiểu các cuộc cách
mạng lớn trên thế giới và khảo sát cuộc sống của nhân dân các dân tộc thuộc
địa.
+ Qua cuộc hành trình
đến nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc, tư bản, đế quốc, Ngưới đã xúc động trước
cảnh khổ cực, bị áp bức của nhiều người dân lao động. Người nhận thấy, ở đâu
nhân dân cũng mong muốn thoát khỏi áp bức, bóc lột.
+ Năm 1919, thay mặt
những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi Bản yêu sách của
nhân dân An Nam tới Hội nghị Vécxây, đòi chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự
do, dân chủ và bình đẳng của nhân dân Việt Nam.
+ Tháng 7 năm 1920,
Nguyễn Ái Quốc đã đọc Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng
trên báo L’Humanité, số ra ngày 16 và 17 tháng 7, Người đã “ cảm động, phấn
khởi, sáng tỏ, tin tưởng…vui mừng đến phát khóc...”.
+ Tháng 12 năm 1920,
Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản, tham gia thành
lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đã đánh dấu
bước chuyển biến về chất trong tư tưởng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến
với chủ nghĩa Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu
nước trở thành người cộng sản. Người khẳng định “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”.
3.
Thời kỳ từ năm 1921 - 1930: Hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam
- Trong giai đoạn từ
năm 1921 - 1930, Nguyễn Ái Quốc có những hoạt động thực tiễn và lý luận hết sức
phong phú, sôi nổi để tiến tới thành lập chính đảng cách mạng ở Việt Nam.
+ Thời kỳ hoạt động
tại Pháp (1921 - 6/1923)
ü
Người
hoạt động tích cực trong Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp.
ü
Năm
1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa của
Pháp lập ra Hội liên hiệp thuộc địa. Hội
quyết định xuất bản tờ báo Người cùng khổ
(Le Paria).
ü
Cuối
năm 1921, tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Pháp họp ở Mácxây, Nguyễn
Ái Quốc trình bày dự thảo nghị quyết về vấn đề “ Chủ nghĩa cộng sản và các thuộc địa” và kiến nghị thành lập Ban Nghiên
cứu thuộc địa trực thuộc Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Pháp.
ü
Năm
1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa được thành lập, Nguyễn Ái Quốc được cử làm
trưởng tiểu ban nghiên cứu về vấn đề Đông Dương.
ü
Nguyễn
Ái Quốc viết nhiều bài đăng trên các báo Người
cùng khổ (Le Paria), Nhân đạo (L’
Humanité) của Đảng Cộng sản Pháp, Đời
sống công nhân (La Vie ouvriere) của
Tổng Liên đoàn Lao động Pháp.
+ Thời kỳ hoạt động
tại Liên Xô (6/1923 - 11/1924)
ü
Tháng
6 - 1923, Nguyễn Ái Quốc rời Pháp đi Mátxcơva để tham dự Hội nghị Quốc tế nông
dân.
ü
Nguyễn
Ái Quốc trực tiếp học tập, nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười và chủ
nghĩa Lênin.
ü
Người
viết nhiều bài cho báo Sự thật của
Đảng Cộng sản Liên Xô và tạp chí Thư tín
quốc tế của Quốc tế Cộng sản.
ü
Năm
1924, Người tham dự Đại hội V của Quốc tế Cộng sản và các đại hội của Quốc tế
Công hội đỏ, Quốc tế Phụ nữ, Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Cứu tế đỏ.
+ Thời kỳ hoạt động
tại Trung Quốc ( 11/1924 - 1927)
ü
Ngày
11/11/1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây Người cùng các
nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, Thái Lan…thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức.
ü
Tháng
6 - 1925, Người sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên, hạt nhân là Cộng sản đoàn.
Cơ quan tuyên truyền của Hội là tuần báo Thanh
niên.
ü
Thời
kỳ hoạt động tại Thái Lan (1928 - 1929).
- Các tác phẩm của
Nguyễn Ái Quốc như Bản án chế độ thực dân
Pháp (1925), Đường cách mệnh (1927),
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ( Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt) (1930) và nhiều bài viết khác của Người trong giai
đoạn này là sự phát triển và tiếp tục hoàn thiện tư tưởng cách mạng về giải
phóng dân tộc. Những tác phẩm có tính chất lý luận nói trên chứa đựng những nội
dung căn bản sau đây:
+ Chủ nghĩa thực dân
là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động toàn thế giới.
+ Cách mạng giải
phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách mạng vô sản và là
một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.
+ Cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ khăng
khít với nhau, nhưng không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có
thể bùng nổ và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc.
+ Cách mạng thuộc địa
trước hết là một cuộc “dân tộc cách mệnh”, đánh đổ bọn ngoại xâm, giành độc
lập, tự do.
+ Ở một nước nông
nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, bị đế quốc,
phong kiến bóc lột nặng nề. Vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc, muốn giành
được thắng lợi cần phải thu phục, lôi cuốn được nông dân đi theo, cần xây dựng
khối công nông liên minh làm động lực cho cách mạng. Đồng thời, cần phải thu
hút, tập hợp rộng rãi các giai cấp xã hội khác vào trận tuyến đấu tranh chung
của dân tộc.
+ Cách mạng muốn
thành công trước hết cần phải có Đảng lãnh đạo.
+ Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không phải việc của một vài người. Vì vậy,
cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp
lên cao.
Những quan điểm tư
tưởng cách mạng trên đây của Nguyễn Ái Quốc được giới thiệu trong các tác phẩm
của Người, cùng các tài liệu mácxít khác, theo những đường dây bí mật truyền về
trong nuớc, tạo ra một xung lực mới, một chất men kích thích, thúc đẩy phong
trào dân tộc phát triển theo xu hướng mới của thời đại.
4.
Thời kỳ từ 1930 - 1945: Vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập trường cách
mạng
-
Vào cuối những
năm 20, đầu những năm 30 của thế kỷ XX, Quốc tế Cộng sản bị chi phối nặng bởi
khuynh hướng “tả”. Khuynh hướng này đã trực tiếp tác động vào phong trào cách
mạng Việt Nam .
Biểu hiện rõ nhất là những quyết định được đưa ra trong Hội nghị lần thứ nhất
Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng họp từ ngày 14 đến 31 tháng 10 năm
1930 tại Hương Cảng (Trung Quốc) theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản.
+ Hội nghị quyết định
đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương.
+ Hội nghị ra nghị
quyết “ thủ tiêu Chánh cương, Sách lược
của Đảng” và phải dựa vào các nghị quyết của Quốc tế Cộng sản.
- Nguyễn Ái Quốc đã
kiên trì bảo vệ quan điểm của mình về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, về
cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và cách mạng vô sản, chống lại những
biểu hiện “tả” khuynh và biệt phái trong Đảng.
- Thực tiễn đã chứng
minh quan điểm của Nguyễn Ái Quốc là hoàn toàn đúng đắn.
+ Tháng 7 năm 1935,
Đại hội VII Quốc tế Cộng sản đã phê phán khuynh hướng “tả” trong phong trào
cộng sản quốc. Trên quan điểm đó năm 1936 , Đảng ta đã đề ra chính sách mới,
phê phán những biểu hiện “tả” khuynh, cô độc, biệt phái trước đây.
+ Trong giai đoạn
1936 - 1939 Đảng ta đã có sự chuyển hướng đấu tranh với nhiệm vụ trước mắt là
chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay
sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hoà bình. Đảng chủ trương thành lập Mặt trận
nhân dân phản đế Đông Dương.
+ Hội nghị Trung ương
VI (11 - 1939) đã đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
+ Ngày 28 - 1 - 1941,
sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc. Tại Hội nghị
Trung ương lần thứ tám (từ 10 đến 19 - 1941) họp tại Pác Bó (Cao Bằng) dưới sự
chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chiến lược
của cách mạng Việt Nam .
+ Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là
thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin đựơc vận dụng, phát triển ngày càng sát
đúng với hoàn cảnh Việt Nam.
5.
Thời kỳ từ 1945 - 1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, hoàn thiện
- Đây là thời kỳ Hồ
Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân ta vừa tiến hành cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, vừa xây dựng chế độ dân chủ nhân dân (1945
- 1954); tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền bắc (1954 - 1975).
- Xuất phát từ thực
tiễn, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhiều vấn đề đã tiếp tục được bổ sung và phát triển, hợp thành một hệ thống
những quan điểm lý luận về cách mạng Việt Nam . Đó là: tư tưởng về chủ nghĩa
xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tư tưởng về Nhà nước của dân,
do dân, vì dân; tư tưởng và chiến lược
về con người…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét