1.
Sự cần thiết xây dựng đoàn kết quốc tế
a. Thực
hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo
sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
- Đây là một trong những nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh và
cũng là một trong những bài học kinh nghiệm quan trọng nhất của cách mạng Việt
Nam.
- Sức mạnh của dân tộc Việt Nam là sự tổng
hợp của các yếu tố vật chất và tinh thần, song trước hết là sức mạnh của chủ
nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự cường dân tộc; sức mạnh của tinh thần đoàn
kết; của ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập tự do.
- Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhờ tổng kết thực tiễn dưới ánh
sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã từng bước phát hiện ra sức mạnh
tiềm ẩn trong trào lưu cách mạng thế giới mà Việt Nam cần tranh thủ.
+
Nếu được liên kết, tập hợp trong khối đoàn kết quốc tế sẽ tạo nên sức mạnh to
lớn.
+
Sức mạnh đó luôn được bổ sung những nhân tố mới, phản ánh sự vận động và phát
triển không ngừng của lịch sử.
- Hồ Chí Minh sớm xác định cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng
thế giới
+
Cách mạng Việt Nam chỉ có thể thành công và thành công đến nơi khi thực hiện
đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới.
+
Tư tưởng đoàn kết với phong trào cách mạng thế giới đã được Hồ Chí Minh phát
triển ngày càng đầy đủ, rõ ràng.
-
Đối tượng đoàn kết quốc tế
+
Đoàn kết với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc và ở các nước tư bản chủ
nghĩa nói chung.
+
Đoàn kết với nước Nga Xôviết, với Liên Xô và sau này mở rộng ra tất cả các nước
xã hội chủ nghĩa.
+
Đoàn kết với phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ trên
thế giới.
+
Thực hiện khối đại đoàn kết với Việt - Miên - Lào.
-
Vai trò của đoàn kết quốc tế với cách mạng Việt Nam: trong buổi nói chuyện với
Đại sứ nước ta tại Liên Xô (1961), Hồ Chí Minh nói: “Có sức mạnh cả nước một
lòng…, lại có sự ủng hộ của nhân dân thế giới, chúng ta sẽ có một sức mạnh tổng
hợp cộng với phương pháp cách mạng thích hợp, nhất định cách mạng nước ta sẽ đi
đến đích cuối cùng”.
-
Mối quan hệ giữa đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế:
+
Đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế.
+
Đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế.
+
Nếu đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam, thì đoàn kết quốc tế cũng là một nhân tố thường xuyên và hết sức
quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn.
b)
Thực hiện đoàn kết quốc tế, nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện
thắng lợi các mục tiêu cách mạng
-
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với
chủ nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc
tế. Thực hiện đoàn kết quốc tế:
+
Vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
đế quốc và thế lực phản động quốc tế.
+
Vì các mục tiêu cách mạng của thời đại.
-
Vận mệnh của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả loài người
nên Hồ Chí Minh luôn kiên trì đấu tranh không mệt mỏi để củng cố và tăng cường
đoàn kết giữa các lực lượng cách mạng thế giới đấu tranh cho mục tiêu chung: hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Người chỉ ra rằng, Đảng
phải lấy toàn bộ thực tiễn của mình để chứng minh: chủ nghĩa yêu nước triệt để
không thể nào tách rời với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
+
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội II (2-1951), Người chỉ rõ: “Tinh thần yêu
nước chân chính khác hẳn với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động. Nó
là một bộ phận của tinh thần quốc tế”.
+
Trong tác phẩm Thường thức chính trị (1954), Người chỉ rõ: “Tinh thần yêu nước
là kiên quyết giữ gìn quyền độc lập, tự do và đất đai toàn vẹn của nước mình.
Tinh thần quốc tế là đoàn kết với các nước bạn và nhân dân các nước khác để giữ
gìn hòa bình thế giới, chống chính sách xâm lược và chính sách chiến tranh của
đế quốc…”.
-
Các Đảng cộng sản phải kiên trì chống lại khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ
hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sôvanh…, giáo dục chủ nghĩa yêu nước
chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản cho giai cấp công nhân và nhân
dân lao động.
-
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong mấy thập kỷ qua là thắng lợi của tư
tưởng Hồ Chí Minh: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Kết
luận:
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp chặt chẽ chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản là nhằm góp phần cùng nhân dân thế
giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc và thời đại.
2.
Nội dung và hình thức đoàn kết quốc tế
a)
Các lực lượng cần đoàn kết
-
Đối với phong trào cộng sản và công nhân thế giới - lực lượng nòng cốt của đoàn
kết quốc tế, Hồ Chí Minh cho rằng, sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản quốc tế là
một đảm bảo vững chắc cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản.
+
Tại Đại hội Tua của Đảng Xã hội Pháp (12 – 1920), Hồ Chí Minh đã lên tiếng:
“Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái
hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi”.
+
Hồ Chí Minh đã tiếp nhận học thuyết Lênin, tìm thấy “cẩm nang thần kỳ” cho sự
nghiệp cứu nước của các dân tộc bị nô dịch.
+
Người cũng tìm thấy lực lượng ủng hộ công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa. Đó là phong trào cộng sản và công nhân thế giới, là Liên Xô
và sau này là các nước xã hội chủ nghĩa,là Quốc tế thứ ba và sau này là Cục
Thông tin quốc tế.
+
Chủ trương đoàn kết giai cấp vô sản các nước, đoàn kết giữa các đảng cộng sản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất yếu về vai trò của giai cấp vô
sản trong thời đại ngày nay.
+
Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa tư bản là một lực lượng phản động quốc tế, là
kẻ thù chung của nhân dân lao động thế giới.
*Chỉ
có sức mạnh đoàn kết, nhất trí, sự đồng tình ủng hộ lẫn nhau của nhân dân lao
động thế giới theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em” mới chống lại
được những âm mưu của chủ nghĩa đế quốc thực dân.
*Thắng
lợi của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân Việt Nam không
tách rời sự đồng tình ủng hộ, chi viện của Liên Xô và các nước XHCN.
- Đối với phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc, từ rất sớm Hồ Chí Minh đã phát hiện ra âm mưu chia rẽ dân tộc
của các nước đế quốc, tạo sự biệt lập, đối kháng, thù ghét dân tộc, chủng tộc…,
nhằm làm suy yếu phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Người
đã kiến nghị Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản về những biện pháp nhằm “Làm cho
các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn
và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên
minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”. Hồ Chí Minh đề
nghị Quốc tế Cộng sản phải “Làm cho đội tiên phong của lao động thuộc địa tiếp
xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp tác
thật sự sau này…”.
-
Đối với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình, dân chủ, tự do
và công lý, Hồ Chí Minh cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết.
+
Hồ Chí Minh đã gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hòa
bình, tự do, công lý và bình đẳng để tập hợp và tranh thủ sự ủng hộ của các lực
lượng tiến bộ trên thế giới.
+
Hồ Chí Minh chú ý đến đẩy mạnh ngoại giao của nhà nước với các nước dân chủ
trên thế giới và đẩy mạnh ngoại giao nhân dân, xây dựng các quan hệ hữu nghị,
đoàn kết với các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
+
Hồ Chí Minh đã khơi gợi lương tri của loài người tiến bộ, tạo nên tiếng nói ủng
hộ mạnh mẽ từ các tổ chức quần chúng, các nhân sĩ trí thức và từng con người
trên hành tinh.
b)
Hình thức đoàn kết
-
Đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là vấn đề sách lược, một
thủ đoạn chính trị nhất thời mà là vấn đề có tính nguyên tắc, một đòi hỏi khách
quan của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
+
Năm 1924, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về thành lập “Mặt trận thống nhất của
nhân dân chính quốc và thuộc địa” chống chủ nghĩa đế quốc.
-
Dựa trên cơ sở các quan hệ về địa lý - chính trị và tính chất chính trị xã hội
trong khu vực và trên thế giới, cũng như tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong
mỗi thời kỳ, Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng và củng cố khối đoàn kết quốc
tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các trào lưu cách mạng thời đại, góp
phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
-
Đối với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc
biệt.
+
Năm 1941, Người quyết định thành lập riêng biệt Mặt trận độc lập đồng minh cho
từng nước Việt Nam, Lào, Cao Miên., tiến tới thành lập Đông Dương độc lập đồng
minh.
+
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Hồ Chí Minh chỉ đạo hình thành Mặt
trận đoàn kết Việt - Miên - Lào (Mặt trận nhân dân ba nước Đông Dương).
-
Mở rộng quan hệ với các nước khác:
+
Đoàn kết hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với Trung Quốc.
+
Đoàn kết với các dân tộc châu Á và châu Phi đang đấu tranh giành độc lập. Những
năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa (Pháp), Hội
liên hiệp các dân tộc bị áp bức (Trung Quốc), góp phần đặt cơ sở cho sự ra đời
của Mặt trận nhân dân Á -Phi đoàn kết với Việt Nam.
-
Trong những năm đấu tranh giành độc lập, Người tìm cách xây dựng các quan hệ
với Mặt trận dân chủ và lực lượng đồng minh chống phát xít, tạo thế dựa cho
cách mạng Việt Nam. Trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, bằng hoạt động ngoại
giao, Người đã nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Người tranh thủ
sự đồng tình ủng hộ của các nước XHCN, bạn bè quốc tế và nhân loại tiến bộ,
trong đó có cả nhân dân Pháp trong kháng chiến chống Pháp và nhân dân Mỹ trong
kháng chiến chống Mỹ, hình thành Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt
Nam chống đế quốc xâm lược.
Kết
luận:
Tư
tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành bốn tầng
mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào;
Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam; Mặt trận nhân dân thế giới
đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
3.
Nguyên tắc đoàn kết quốc tế
a)
Đoàn kết quốc tế trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình
-
Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết thống
nhất trên nền tảng của chủ nghĩa Mác -
Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình.
+
Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, lực lượng tiên phong của cách mạng
thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì mục tiêu hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
+
Đoàn kết giữa các Đảng là “điều kiện quan trọng nhất để bảo đảm cho phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế toàn thắng trong cuộc đấu tranh vĩ đại cho tương
lai tươi sáng của toàn thể loài người”.
+
“Có lý” trước hết là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin, xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới, vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn mỗi nước.
+
“Có tình” là sự thông cảm, tôn trọng lẫn nhau trên tinh thần, tình cảm của
những người cùng chung lý tưởng, mục tiêu đấu tranh, đòi hỏi trong mọi vấn đề
phải chờ đợi nhau cùng nhận thức, cùng hành động vì lợi ích chung, không làm
phương hại đến lợi ích chung, lợi ích của các dân tộc khác, của các đảng khác.
-
Đối với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập, tự
do, và quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
+
Độc lập tự do cho mỗi dân tộc là tư tưởng nhất quán, được Hồ Chí Minh coi là
chân lý, là “lẽ phải không ai chối cãi được”.
+
Dân tộc Việt Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự
quyết của tất cả các quốc gia dân tộc trên thế giới, đồng thời mong muốn các
quốc gia, dân tộc trên thế giới quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt Nam trên cơ
sở các nguyên tắc đó.
+
Trả lời nhà báo Mỹ S. Êli Mâysi (9 – 1947), Hồ Chí Minh tuyên bố: Chính sách
đối ngoại của nước Việt Nam là “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không
gây thù oán với một ai”.
- Đối với các lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ hòa bình trong công lý.
- Đối với các lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ hòa bình trong công lý.
+
Giương cao ngọn cờ hòa bình, chống chiến tranh xâm lược là một trong những nội
dung rất quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
+
Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn giương cao ngon cờ hòa bình, đấu
tranh cho hòa bình, một nền hòa bình thực sự cho tất cả các dân tộc - “hòa bình
trong độc lập tự do”.
+
Giương cao ngọn cờ hòa bình và đấu tranh bảo vệ hòa bình là tư tưởng bất di bất
dịch của Hồ Chí Minh. Nhưng đó không phải là một nền hòa bình trừu tượng, mà là
“một nền hòa bình chân chính xây trên công bình và lý tương dân chủ”, chống
chiến tranh xâm lược vì quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia.
b)
Đoàn kết quốc tế trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường
-
Đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực
lượng quốc tế, nhằm tăng thêm nội lực tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi cách
mạng đặt ra.
+
Trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nêu cao khẩu hiệu: “Tự lực cánh
sinh, dựa vào sức mình là chính”, muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải
tự giúp lấy mình đã”.
+
Trong đấu tranh giành chính quyền, Người chủ trương “đem sức ta mà giải phóng
cho ta”.
+
Trong đấu tranh chống thực dân Pháp, Người chỉ rõ “ Một dân tộc không tự lực
cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc
lập”.
+
Trong quan hệ quốc tế, Người nhấn mạnh phải có thực lực, thực lực là cái
chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn.
-
Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của quốc tế, Đảng
phải có đường lối độc lập, tự chủ và đúng đắn.
+
Trong quan hệ giữa các đảng thuộc phong trào cộng sản,công nhân quốc tế, Người
xác định: “Các đảng dù lớn nhỏ đều độc lập và bình đẳng, đồng thời đoàn kết
nhất trí giúp đỡ lẫn nhau”.
+
Trong kháng chiến chống Mỹ, với đường lối độc lập, tự chủ giương cao hai ngọn
cờ độc lập dân tộc và CNXH, kết hợp hài hòa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế,
Đảng ta đã tranh thủ được sự ủng hộ của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa và
nhân dân thế giới, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mỹ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét