Thứ Sáu, 11 tháng 7, 2014

Tư tưởng Hồ chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam

I. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ VÀ BẢN CHẤT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Xuất phát từ  hoàn cảnh cụ thể của nước Nga và phong trào công nhân Châu Âu, khi đề cập tới các yếu tố dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản,V.I.Lênin nêu lên hai yếu tố đó là sự kết hợp chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân.
- Kế thừa, vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, khi đề cập tới sự hình thành của Đảng Cộng sản Việt Nam, bên cạnh hai yếu tố chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân, Hồ Chí Minh còn kể đến yếu tố thứ ba, đó là phong trào yêu nước.
Khái quát về qui luật đặc thù của việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong bài Ba mươi năm hoạt động của Đảng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc hình thành Đảng Cộng sản Đông Dương vào năm 1930. Đây chính là một quan điểm quan trọng của Hồ Chí Minh về sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trên cơ sở tổng kết thực tiễn Việt Nam. Điều này thể hiện hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau ở Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một là, phải nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin; Hai là, phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, hiểu rõ phong trào cách mạng Việt Nam để vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam và đối với quá trình hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, Người cũng đánh giá cao vị trí, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong việc sắp xếp lực lượng cách mạng. Giai cấp công nhân Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Sở dĩ, khi đề cập tới các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đề cập tới yếu tố thứ ba, đó là phong trào yêu nước. Điều này xuất phát từ những lý do sau:
Một là, phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn trong lịch sự dân tộc Việt Nam và là nhân tố chủ đạo quyết định sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc ta. Phong trào yêu nước có trước phong trào công nhân.
Hai là, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước bởi vì hai phong trào đó có mục tiêu chung.
Cơ sở của sự kết hợp ngay từ đầu, liên tục, chặt chẽ giữa hai phong trào này là do xã hội nước ta tồn tại mâu thuẫn cơ bản giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc và tay sai. Vì vậy, hai phong trào này đều có một mục tiêu chung là giải phóng dân tộc, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, xây dựng đất nước hùng cường.
Ba là, phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân. Nói đến phong trào yêu nước Việt Nam phải kể đến phong trào nông dân. Giai cấp nông dân là bạn đồng minh tự nhiên của giai cấp công nhân. Do điều kiện lịch sử chi phối, giai cấp công nhân Việt Nam phần lớn đều xuất thân từ nông dân. Vì vậy, giữa phong trào công nhân và phong trào yêu nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân hợp thành quân chủ lực của cách mạng.
Bốn là, phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thức đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam 
      - Xuất phát từ  quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh đã khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng quần chúng phải được tập hợp, đoàn kết và lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam.  
      - Trong cuốn  Đường cách mệnh xuất bản năm 1927, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề: “ Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, bên trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”
      - Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với qui luật phát triển của xã hội. Đó là một chính đảng của giai cấp công nhân, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, có khả năng đoàn kết, lôi kéo tập hợp lực lượng về phía cách mạng. Đảng hoạt động vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, lợi ích của toàn thể dân tộc Việt Nam và lợi ích của nhân dân tiến bộ trên thế giới, Đảng không có lợi ích nào khác. 
      - Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tính quyết  định hàng đầu từ sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam đã được thực tế lịch sử chứng minh, không có một tổ chức nào có thể thay thế được, mọi mưu toan hạ thấp vai trò của Đảng, xuyên tạc lịch sử đều đi ngược lai xu thế phát triển của xã hội Việt Nam.
 3. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam
     - Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Đảng Cộng sản: Đảng là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu của giai cấp, là biểu hiện tập trung của lợi ích, nguyện vọng, phẩm chất, trí tuệ của giai cấp công nhân và của dân tộc.
      - Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất của giai cấp công nhân.
      - Trên cơ sở vận dụng và kế thừa chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có cách thể hiện khác về vấn đề “đảng của ai”.
      + Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951): Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai câp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam.
      + Năm 1953: “ Đảng Lao động là tổ chức cao nhất của giai cấp cần lao và đại biểu cho lợi ích của dân tộc... Đảng là đảng của giai cấp lao động, mà cũng là đảng của toàn dân”.
      + Năm 1957: “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc”.
      + Năm 1961: Đảng ta là đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư thiên vị.
      + Năm 1965: Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
      Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng quan điểm nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp của Đảng là: Đảng ta mang bản chất giai cấp công nhân. Toàn bộ cơ sở lý luận và nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng đều tuân thủ một cách chặt chẽ lý thuyết về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản của Lênin.
     - Hồ Chí Minh  khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta được thể hiện:
     + Dựa trên cơ sở thấy rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.
     + Mục tiêu của Đảng cần đạt tới là chủ nghĩa cộng sản.
     + Đảng tuân thủ một cách nghiêm túc, chặt chẽ nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
Từ đó Người cũng phê phán những quan điểm không đúng như:
     + Không đánh giá đúng vai trò của giai cấp công nhân.
     + Phê phán quan điểm sai trái chỉ chú trọng công nông mà không thấy rõ vai trò to lớn của các giai cấp, tầng lớp khác.
      - Mặc dù mang bản chất giai cấp công nhân, nhưng Đảng không những là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Quan niệm này có ý nghĩa lớn đối với cách mạng Việt Nam, nhân dân Việt Nam coi Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của chính mình.
      - Thành phần của Đảng ngoài công nhân còn có những người ưu tú trong giai cấp nông dân, trí thức và các thành phần khác.
      - Bản chất giai cấp công nhân của Đảng ngày càng được bảo đảm và tăng cường nếu Đảng gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc trong mọi thời kỳ cách mạng.
      - Sức mạnh của Đảng không chỉ bắt nguồn từ giai cấp công nhân mà còn bắt nguồn từ các tầng lớp nhân dân lao động khác, vì vậy Đảng phải chú trọng tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc.
4. Quan niệm về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
 a) Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền
      Vượt qua giới hạn của những nhà tư tưởng đương thời, qua những năm tháng hoạt động thực tiễn, học tập, nghiên cứu lý luận, Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cách mạng ở chủ nghĩa Mác - Lênin và quyết định đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, Người xác định con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
      Để thực hiện lý tưởng ấy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo phong trào cách mạng, thực hiện mục tiêu nói trên. Chính vì vậy, từ những năm 1920 Người đã chuẩn bị mọi mặt để tiến tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930.
      - Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của Đảng:
        + Năm 1927, trong tác phẩm “Đường Cách mệnh” Người khẳng định nhân tố đầu tiên quyết định sự thắng lợi của cách mạng: “Cách mạng trước hết phải có đảng cách mạng để trong thì vận động tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững thì cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.
     Tư tưởng trên cũng khẳng định sức mạnh quần chúng, nhưng đó phải là quần chúng được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo thì mới trở thành lực lượng to lớn, và là “gốc của cách mạng”.
     + Khi đã vận động, tổ chức được quần chúng Đảng phải thống nhất được tư tưởng để từ đó thống nhất được hành động của quần chúng. Vì vậy, Đảng “phải có chủ nghĩa làm cốt” - chủ nghĩa Mác - Lênin. “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin”.
     Như vậy, tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh là: cách mạng Việt Nam muốn thành công phải đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
     - Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cách mạng chân chính, mang bản chất giai cấp công nhân; Đảng dìu dắt, lãnh đạo giai cấp vô sản, lãnh đạo cách mạng Việt Nam để đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho toàn thể dân tộc. Mục đích tôn chỉ của Đảng là “tận tâm”, “tận lực”, “phụng sự”, và “trung thành” với lợi ích của dân tộc Việt Nam; ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân và toàn thể dân tộc Việt Nam, Đảng không còn lợi ích nào khác.
     - Với đường lối chính trị đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo toàn thể dân tộc giành chính quyền, thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa; Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Vì vậy, Đảng cầm quyền là nhân tố quyết định mang lại độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, phồn vinh cho đất nước, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
b) Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền
     - Khái niệm: “Đảng cầm quyền” là khái niệm dùng trong khoa học chính trị, chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình”.
     + Trong tư tưởng Hồ Chí Minh có thể bắt gặp các khái niệm cùng chỉ một hiện tượng Đảng lãnh đạo xã hội sau khi đã giành được chính quyền nhà nước: “Đảng nắm quyền”, “Đảng lãnh đạo chính quyền”, Đảng cầm quyền”. Trong đó, thuật ngữ “Đảng cầm quyền” phản ánh rõ nhất, chính xác nhất vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình cải tạo xã hội cũ thuộc địa nửa phong kiến, xây dựng chế độ mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
     + Năm 1969, trong Di chúc, Hồ Chí Minh sử dụng “Đảng cầm quyền” chỉ vai trò của Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong điều kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân giành được chính quyền nhà nước và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy nhà nước đó để tiếp tục hoàn thành sự nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Điều đó đối lập với khi chưa có chính quyền, Đảng lãnh đạo lật đổ chính quyền thực dân và phong kiến.
     + “Đảng cầm quyền” nhưng bản chất của Đảng không thay đổi. Đồng thời đó cũng là thử thách hết sức nặng nề của Đảng là Người đảng viên cộng sản không được quên nhiệm vụ, mục đích của mình, phải toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Với chủ tịch Hồ Chí Minh, “Độc lập - Tự Do - Hạnh Phúc” là bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là điểm xuất phát để xây dựng Đảng ta xứng đáng với danh hiệu “Đảng cầm quyền”.
    - Mục đích, lý tưởng của Đảng cầm quyền
       Mục đích, lý tưởng cao cả không bao giờ thay đổi trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng ta là lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Người chỉ rõ: “Những người cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới”. Khi trở thành Đảng cầm quyền, mục đích lý tưởng không những không thay đổi mà còn có thêm những điều kiện và sức mạnh nhằm hiện thực hóa lý tưởng ấy.
    - Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân
       Đây là luận điểm nổi tiếng của Hồ Chí Minh trong bản  Di chúc (1969), nói về vai trò lãnh đạo của Đảng. Đó cũng là sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về đảng vô sản kiểu mới. Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa mục đích, bản chất cách mạng của một đảng mácxít chân chính vào hoạt động thực tiễn của Đảng ta nhằm làm cho mỗi cán bộ, đảng viên ý thức đầy đủ và đúng đắn chức năng, nhiệm vụ của mình trong hoạt động, chỉ đạo của Đảng, cũng như trong quá trình củng cố và xây dựng Đảng luôn thực sự là một Đảng cách mạng, chân chính.
      Đảng Cộng sản Việt Nam “là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Xác định:
     + “Người lãnh đạo”: xác định quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng đối với toàn bộ xã hội và khi có chính quyền, Đảng lãnh đạo nhà nước.
     + Đối tượng lãnh đạo của Đảng là toàn thể nhân dân trong toàn thể dân tộc, nhằm đem lại độc lập cho dân tộc, tự do, ấm no và hạnh phúc cho nhân dân -  mà trước hết là nhân dân lao động.
      Đảng lãnh đạo bằng giáo dục, thuyết phục, nghĩa là Đảng phải làm cho dân tin, dân phục để dân theo. Đồng thời, Đảng phải tổ chức, đoàn kết họ thành một khối thống nhất, bày cách cho dân, hướng dẫn họ hành động. Để hoàn thành vai trò lãnh đạo, Đảng phải sâu sát, gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân và phải chịu sự kiểm soát của nhân dân.
     Để thực hiện quyền lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội, Đảng phải thông qua chính quyền nhà nước “của dân, do dân và vì dân”. Do đó, Đảng phải lãnh đạo nhà nước một cách toàn diện:
      Một là, lãnh đạo xây dựng pháp luật để quản lý, điều hành xã hội.
      Hai là, thường xuyên coi trọng công tác giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, viên chức hoạt động trong bộ máy nhà nước, luôn bảo đảm cho Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, thực sự là Nhà nước “của dân, do dân và vì dân”.
     + Đảng là “đầy tớ”: “đầy tớ” không phải là “tôi tớ, tôi đòi, theo đuôi quần chúng” mà là tận tâm, tận lực phụng sự nhân dân nhằm đem lại các quyền và lợi ích cho nhân dân.
    “Đầy tớ trung thành” chỉ trách nhiệm của đảng viên phải biết “khổ trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, bởi mỗi cán bộ, đảng viên “đều là công bộc của dân”.
      Là “đầy tớ trung thành” yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải có tri thức khoa học, trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi, thấm nhuần đạo đức cách mạng: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, đồng thời biết tuyên truyền, vận động lôi cuốn quần chúng đi theo Đảng, đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi.
      Với hai quan điểm “người lãnh đạo” và “người đầy tớ” Hồ Chí Minh đã chỉ ra sự gắn bó thống nhất, quan hệ biện chứng giữa hai khái niệm, dù ở cương vị nào thì đó cũng là vì dân. Thực hiện tốt cả hai chức năng trên là điều kiện để Đảng đảm bảo uy tín và năng lực của mình.
   -  Đảng cầm quyền, dân là chủ
      Vấn đề cơ bản nhất của một cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền. Theo Các Mác đó mới chỉ là cánh cửa vào xã hội chứ chưa phải là xã hội. Nghiên cứu kinh nghiệm, lý luận của các cuộc cách mạng trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết luận: “Cách mạng rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người”, tức là quyền lực phải thuộc về nhân dân.
      Quyền lực về nhân dân là bản chất, nguyên tắc của chế độ mới, khi xa rời nguyên tắc này Đảng sẽ đối lập với nhân dân, vì vậy Đảng sẽ khó khăn trong khi thực hiện vai trò cầm quyền của mình.
      Dân làm chủ thì phải theo Đảng. Mỗi người dân phải biết lợi ích và bổn phận của mình tham gia vào xây dựng chính quyền.


1 nhận xét: