Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác -
Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn
liền với giải quyết xã hội và giải phóng con
người. Trong đó, vấn đề con người là
vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và
là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của
Người. Tin ở dân, dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân,
bồi dưỡng, đào tạo và phát huy mọi năng lực của dân (ở từng cá nhân riêng lẻ và
của cả cộng đồng), đó là tư tưởng được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển trong
toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc cũng như xây dựng
đất nước. Tư tưởng đó cũng chính là nội dung cơ bản ủa toàn bộ tư tưởng về con người của
Hồ Chí Minh.
Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại vừa tư cách cá nhân, vừa là thành
viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân
hài hòa, phong phú. Người đã nêu một định nghĩa về con người: "Chữ người,
nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả
nước. Rộng nữa là cả loài người". Quan điểm đó thể hiện ở chỗ Người chưa
bao giờ nhìn nhận con người một cách chung chung, trừu tượng. Khi bàn về chính
sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh, Người luôn quan
tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người với tư cách nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi ích
cho con người chính
là tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu
cầu, lợi ích của mỗi cá nhân không được quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực
của họ sẽ không thể phát huy được. Trong khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ
nghĩa cá nhân, Người viết: "Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải
là "giày xéo lên lợi ích cá nhân". Mỗi người đều có tính cách riêng,
sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình". Trong
quan điểm về thực hiện một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo Người, phải là
một nền dân chủ chân chính, không hình thức, không cực đoan, trong đó mỗi con
người cụ thể phải được đảm bảo những quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo hiến
pháp và pháp luật. Con
người, với tư cách là những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn
tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc và với các loài người
trên toàn thế giới.
Con người trong tư tưởng Hồ
Chí Minh không tồn tại như một phạm trù bản thể luận có tính trừu tượng hóa và
khái quát hóa, mà được đề cập đến một cách cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam, những
con người lao động nghèo khổ bị áp bức cùng cực dưới ách thống trị của phong
kiến, đế quốc; là dân
tộc Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn
nữa là những "người nô lệ mất nước" và "người cùng khổ".
Lôgíc phát triển tư tưởng của Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo lôgíc phát triển tư
tưởng ấy, khái niệm "con người" của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái
niệm "giai cấp vô sản cách mạng". Người đề cập đến giai
cấp vô sản cách mạng và sự thống nhất về lợi ích căn bản của giai cấp đó với
các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc biệt là nông dân). Người nhận thức một
cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách mạng duy nhất và tất yếu đạt tới được mục
tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự
nô dịch, áp bức. Toàn bộ các tư tưởng, lý luận (chiếm một khối lượng lớn trong
các tác phẩm của Người) bàn về cách mạng (chiến lược giải pháp; bàn về người cách mạng và
đạo đức cách mạng, về hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội; về rèn
luyện và giáo dục con người v.v...) về thực chất chỉ là sự cụ thể hóa bằng thực
tiễn tư tưởng về con
người của Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục tiêu của sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính sự
nghiệp đó. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong
lý luận chỉ đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
Trong lý luận về xây dựng chế độ mới, Hồ Chủ tịch đã khẳng định xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân gắn liền với việc thực hiện bước tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Trong kháng chiến giải phóng dân tộc cần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân
để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, đồng thời tạo ra những tiền đề cho việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội; trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải thực hiện chế
độ dân chủ nhân dân, vì như Người nói: "Đây là cuộc chiến đấu khổng lồ
chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt
tươi". Cuộc chiến đấu ấy sẽ không đi đến thắng lợi, nếu không "dựa
vào lực lượng của toàn dân". Về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh không bao
giờ quan niệm hình thái xã hội đó như một mô hình hoàn chỉnh, một công thức bất
biến. Bao giờ Người cũng coi trọng những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị,
văn hóa khách quan. Người chỉ đề ra những mục tiêu của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội với những bước đi thiết thực và những nội dung cơ bản nhất. Theo
Người: "Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết là làm
cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc
làm, được ấm no và được sống đời hạnh phúc"; "Chủ nghĩa xã hội là
nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa
của nhân dân" xây dựng chủ nghĩa xã hội tức là làm cho nhân dân ta
có một đời sống thật sung sướng, tốt đẹp. Người dạy xây dựng chủ nghĩa xã hội
phải thiết thực, phù hợp với điều kiện khách quan, phải nắm được quy luật và
phải biết vận dụng quy luật một cách sáng tạo trên cơ sở nắm vững tính đặc thù,
tránh giáo điều, rập khuôn máy móc. Sự sáng tạo đó gần gũi, tương đồng, nhất
quán với luận điểm của Ăngghen: "Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản
không phải là trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà
hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào
hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay". Vì vậy, không chỉ trong lý luận
về đấu tranh giành độc lập dân tộc mà cả trong lý luận xây dựng chủ nghĩa xã
hội khi định ra những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, trước hết, "cần có
con người xã hội chủ nghĩa", Hồ Chí Minh đã thể hiện nhất quán quan điểm về con người: con người là mục tiêu,
đồng thời vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính
bản thân con người.
Tấm lòng Hồ Chí Minh luôn hướng về con người. Người yêu thương con người,
tin tưởng con người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là người lao động,
nhân dân mình và nhân dân các nước. Với Hồ Chí Minh, "lòng thương yêu nhân
dân, thương yêu nhân loại" là "không bao giờ thay đổi". Người có
một niềm tin lớn ở sức mạnh sáng tạo của con người. Lòng tin mãnh liệt và vô
tận của Hồ Chí Minh vào nhân dân, vào những con người bình thường đã được hình
thành rất sớm. Từ những năm tháng Người bôn ba tìm đường cứu nước, thâm nhập,
lăn lộn, tìm hiểu thực tế cuộc sống và tâm tư của những người dân lao động
trong nước và nước ngoài. Người đã khẳng định: "Đằng sau sự phục tùng tiêu
cực, người Đông Dương ẩn giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét, và sẽ
bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ
đến"1.
Tin vào quần chúng, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đó là một trong
những phẩm chất cơ bản của người cộng sản. Và đây cũng chính là chỗ khác căn
bản, khác về chất, giữa quan điểm của Hồ Chí Minh với quan điểm của các nhà Nho
yêu nước xưa kia (kể cả các bậc sĩ phu tiền bối gần thời với Hồ Chí Minh) về
con người. Nếu như quan điểm của Hồ Chí Minh: "Trong bầu trời không có gì
quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết toàn
dân", thì các nhà Nho phong kiến xưa kia mặc dù có những tư tưởng tích cực
"lấy dân làm gốc", mặc dù cũng chủ trương khoan thư sức dân",
nhưng quan điểm của họ mới chỉ dừng lại ở chỗ coi việc dựa vào dân cũng như một
"kế sách", một phương tiện để thực hiện mục đích "trị
nước", "bình thiên hạ". Ngay cả những bậc sĩ phu tiền bối của Hồ
Chí Minh, tuy là những người yêu nước một cách nhiệt thành, nhưng họ chưa có
một quan điểm đúng đắn và đầy đủ về nhân dân, chưa có đủ niềm tin vào sức mạnh
của quần chúng nhân dân. Quan điểm tin vào dân, vào nhân tố con người của Người thống nhất với
quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin: "Quần chúng nhân dân là người sáng tạo
chân chính ra lịch sử".
Tin dân, đồng thời lại hết lòng thương dân, tình thương yêu nhân dân của
Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống dân tộc, truyền thống
nhân ái ngàn đời của người Việt Nam. Cũng như bao nhà Nho yêu nước khác có cùng
quan điểm "ái quốc là ái dân", nhưng điểm khác cơ bản trong tư tưởng
"ái dân" của Người là tình thương ấy không bao giờ dừng lại ở ý thức,
tư tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại cần lao, xóa bỏ đau
khổ, áp bức bất công giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị làm người cho con
người. ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước gắn bó không tách rời với chủ nghĩa
quốc tế chân chính. Tình thương yêu cũng như toàn bộ tư tưởng về nhân dân của
Người không bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà nó tồn tại trong mối
quan hệ khăng khít giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia với quốc tế.
Yêu thương nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương nhân dân các dân tộc
bị áp bức trên toàn thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh
luôn coi trọng sức mạnh đoàn kết toàn dân và sự đồng tình ủng hộ to lớn của bè
bạn khắp năm châu, của cả nhân loại tiến bộ. Người cũng xác định sự nghiệp cách
mạng của nước ta là một bộ phận không thể tách rời trong toàn bộ sự nghiệp đấu
tranh giải phóng nhân loại trên phạm vi toàn thế giới.
Tóm lại: Quan
niệm về con người, coi con người là một thực thể thống nhất của "cái cá
nhân" và "cái xã hội", con người tồn tại trong mối quan hệ biện
chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con
người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con
người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của Hồ
Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh đạo nhân dân
cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ
Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng thương yêu, quý trọng nhân dân, biết tổ chức
và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về con người của Người thông qua
thực tiễn cách mạng của Người thông qua thực tiễn cách mạng đã trở thành một
sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi của chính sự nghiệp
cách mạng ấy.
Tư tưởng về con
người của Hồ Chí Minh dựa trên thế giới quan duy vật triệt để của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy vật triệt để ấy,
nên khi nhìn nhận và đánh giá vai trò của bản thân mình (với tư cách là lãnh
tụ), Người không bao giờ cho mình là người giải phóng nhân dân. Theo quan điểm
của Hồ Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là "đầy tớ trung
thành" có sứ mệnh phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp phần vào sự
nghiệp cách mạng của quần chúng. Tư tưởng này đã vượt xa và khác về chất so với
tư tưởng "chăn dân" của những người cầm đầu nhà nước phong kiến có tư
tưởng yêu nước xưa kia. Và đây, cũng chính là điều đã làm nên chủ nghĩa nhân
văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt cách của
một nhà hiền triết phương Đông.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động. Tư tưởng về con người của Đảng Cộng sản Việt Nam nhất quán với tư tưởng
về con người của
Hồ Chí Minh. Sự nhất quán ấy được thể hiện qua đường lối lãnh đạo cách mạng và
qua các chủ trương chính sách của Đảng trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo công
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong
sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, tư tưởng đó tiếp tục được Đảng ta quán
triệt vận dụng và phát triển. Con người Việt Nam đang là trung tâm trong
"chiến lược phát triển toàn diện"; đang là động lực của công cuộc xây
dựng xã hội mới với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội".
Theo: www.yenbai.gov.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét