I.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
1. Vai trò của đại
đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng
a) Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược, quyết định thành công của cách mạng
- Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí
Minh có ý nghĩa chiến lược. Nó là tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến
trình cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp
được, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu
tranh với kẻ thù dân tộc, giai cấp.
- Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách
mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp cho phù hợp
với những đối tượng khác nhau.
- Nhờ tư tưởng nhất quán và chính sách mặt
trận đúng đắn, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công khối đại đoàn
kết dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi to lớn.
- Hồ Chí Minh cũng nêu ra những luận điểm
có tính chân lý, không chỉ với cách mạng Việt Nam mà với cả thế giới: “Đoàn kết
làm ra sức mạnh”; “đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”; “đoàn kết là sức mạnh, đoàn
kết là thắng lợi”; “đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”.
Trong bài nói chuyện tại Đại hội đại biểu Mặt
Trận Tổ Quốc Việt Nam lần thứ II (25/4/1961) Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân
lý:
“Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành
công, thành công, đại thành công”
b) Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ, mục tiêu
hàng đầu của Đảng, của dân tộc
- Đại đoàn kết dân tộc phải được xác định
là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực,
từ đường lối, chính sách tới hoạt động thực tiễn của Đảng.
+ Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng
Lao động Việt Nam(3/3/1951) Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng, tuyên bố trước toàn
thể dân tộc: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ: “Đoàn
kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”.
+ Người thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên
phải thấm nhuần quan điểm của quần chúng, gần gũi quần chúng, tổ chức, giáo dục
quần chúng…
- Đại đoàn kết là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng,
đồng thời cũng là nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng.
+ Cách mạng muốn thành công, Đảng phải cụ
thể hoá những chính sách, đường lối đúng thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương
pháp cách mạng phù hợp để tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho cách mạng. Thực
lực đó chính là khối đại đoàn kết dân tộc.
+ Năm 1963, khi nói chuyện với các cán bộ
tuyên truyền và huấn luyện miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “…Bây giờ mục đích của tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai
là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”.
- Đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là
mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, mà còn là nhiệm vụ, mục tiêu
hàng đầu của dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc là đòi hỏi khách quan của bản thân
quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, là sự nghiệp của
quần chúng và do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp,
hướng dẫn, lãnh đạo.
2.
Nội dung của đại đoàn kết dân tộc
a) Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các khái niệm
“dân”, “nhân dân” có nội hàm rất rộng. Người dùng các khái niệm này để chỉ “mọi
con dân nước Việt”, “mỗi một người con rồng cháu tiên”, không phân biệt “già
trẻ, gái trai, giàu nghèo, quý tiện”. Như vậy, “dân”, “nhân dân” vừa chỉ một
tập hợp đông đảo quần chúng, vừa được hiểu là mọi con người Việt Nam cụ thể, và
cả hai đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc.
- Nói đến đoàn kết dân tộc, cũng có nghĩa là phải tập hợp được tất cả
mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Theo ý nghĩa đó, nội hàm
khái niệm đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, bao gồm nhiều
tầng nấc các quan hệ liên kết qua lại giữa các thành viên, các bộ phận, lực lượng
xã hội của dân tộc từ nhỏ đến lớn, từ trong ra ngoài.
- Người còn chỉ rõ, trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân,
phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hoà mối quan
hệ giai cấp, dân tộc để tập hợp lực lượng trung thành và sẵn sàng phục vụ Tổ
quốc.
b) Thực hiện đại đoàn kết toàn dân phải
kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa -
đoàn kết của dân tộc; đồng thời, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng,
tin vào dân, tin vào con người
- Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phải kế thừa truyền thống yêu nước
- nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh vô địch
để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai địch hoạ, làm cho đất nước
được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.
- Phải có lòng khoan dung độ lượng với con người.
+ Lòng khoan dung, độ lượng ở Hồ Chí Minh
không phải là một sách lược nhất thời, một thủ đoạn chính trị mà là sự tiếp nối
và phát triển truyền thống nhân ái, bao dung của dân tộc, từ chính mục tiêu
cách mạng mà người suốt đời theo đuổi.
+ Người tha thiết kêu gọi tất cả những ai
có lòng yêu nước, không phân biệt tầng lớp, tín ngưỡng chính kiến và trước đây đã
từng đứng về phe nào, hãy cùng nhau đoàn kết vì nước, vì dân.
- Để thực hành đoàn kết rộng rãi, cần có niềm tin vào nhân dân. Với Hồ
Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân
dân là nguyên tắc tối cao. Theo Người, DÂN là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là
nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi
của cách mạng, là nền, gốc và chủ thể
của Mặt trận.
3. Hình thức tổ
chức khối đại đoàn kết dân tộc
a) Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc
là Mặt trận dân tộc thống nhất
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết
dân tộc không thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở những lời kêu gọi, những lời hiệu
triệu mà phải trở thành chiến lược cách mạng, phải trở thành khẩu hiệu hành
động của toàn Đảng, toàn dân tộc. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, trở
thành lực lượng vật chất có tổ chức. Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống
nhất.
- Toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to
lớn, có sức mạnh vô địch trong đấu tranh bảo vệ và xây dựng Tổ quốc khi được
tập hợp, tổ chức lại thành một khối vững chắc, được giác ngộ về mục tiêu chiến
đấu chung và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn…
- Về một phương diện nào đó, có thể khẳng
định rằng, quá trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh cũng là quá trình tìm
kiếm mô hình và cách thức tổ chức quần chúng nhân dân, nhằm tạo sức mạnh cho quần
chúng cho cuộc đấu tranh… Vì vậy, ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ
Chí Minh đã rất chú ý đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù
hợp với từng giai cấp, từng ngành nghề… Đó có thể là các hội ái hữu hay tương
trợ, công hội hay nông hội… Trong đó, bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất ( MTDTTN ).
- MTDTTN là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá
nhân yêu nước, nơi tập hợp con dân nước Việt, không chỉ ở trong nước mà còn bao
gồm cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù bất cứ phương trời nào,
nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, về Tổ quốc Việt Nam, đều được coi
là Mặt trận.
- Tùy theo từng thời kỳ, căn cứ vào yêu cầu
và nhiệm vụ cách mạng…, MTDTTN có thể có những nét khác nhau, tên gọi của
MTDTTN theo đó, cũng có thể khác nhau: Hội
phản đế đồng minh(1930), Mặt trận Dân chủ(1936), Mặt trận nhân dân phản đế
(1939)… Song thực chất chỉ là một, đó là tổ chức chính trị - xã hội rộng
lớn của nhân dân Việt Nam.
b) Môt số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động
của Mặt trận dân tộc thống nhất
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây
dựng trên nền tảng khối liên minh công - nông - trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng
+ Đây
là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, nó hoàn
toàn khác với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt
Nam trong lịch sử.
+ Hồ Chí Minh viết: “Lực lượng chủ yếu
trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền
tảng của MTDTTN”. Người chỉ rõ rằng, sở dĩ phải lấy liên minh công - nông làm
nền tảng “Vì họ là người trực tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú làm cho xã hội
sống. Vì họ đông hơn hết, mà cũng bị áp bức bóc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí
cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp khác”.
+ Làm cách mạng phải có tri thức và tầng
lớp trí thức rất quan trong đối với cách mạng. Người nói, “trong sự ngiệp cách
mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao đông trí óc có một vai trò
quan trọng và vẻ vang; và công, nông, trí
cần đoàn kết chặt chẽ thành một khối”.
+ Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, MTDTTN và
liên minh công - nông luôn được Người xem xét trong mối quan hệ biện chứng giữa
dân tộc và giai cấp.
+ Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là công
việc của toàn dân tộc, song nó chỉ có thể được củng cố và phát triển vững chắc
khi có được Đảng lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa là vấn đề
mang tính nguyên tắc, vừa là một tất yếu bảo đảm cho Mặt trân tồn tại, phát
triển và có hiệu lực trong thực tiễn.
+ Hồ Chí Minh luôn xác định, mối quan hệ
giữa Đảng và Mặt trận là mối quan hệ máu thịt. Không có Mặt trận, Đảng không có
lực lượng, không thể thực hiện được những nhiệm vụ cách mạng; không có sự lãnh
đạo của Đảng, Mặt trận không thể hình thành, phát triển và không có phương
hướng hoạt động đúng đắn. Do vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một thành viên
của Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận.
+ Hồ Chí Minh còn cho rằng, sự lãnh đạo của
Đảng đối với Mặt trận vừa là một tất yếu, vừa phải có điều kiện. Tính tất yếu
thể hiện ở năng lực nắm bắt thực tiễn, phát hiện ra các quy luật khách quan của
sự vận động lịch sử…
+ Quyền lãnh đạo Mặt trận của Đảng không phải
do Đảng tự phong cho mình, mà phải được nhân dân thừa nhận.
+ Hồ Chí Minh chỉ rõ, khi chưa giành được
chính quyền, “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của
mình, mà phải tỏ ra là bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực
nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa
nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được
địa vị lãnh đạo.”
+ Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải có chính
sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng… Người
viết “Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công tác Mặt trận
là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”. Trong quá
trình lãnh đạo Mặt trận, phải đi đúng đường lối quần chúng. Phải dùng phương
pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu
gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi dậy tinh thần tự giác, tự
nguyện , hết sức tránh gò ép, quan liêu, mệnh lệnh.
+ Hồ Chí Minh căn dặn: “Phải thành thật
lắng nghe ý kiến của người ngoài Đảng. Cán bộ và đảng viên không được tự cao,
tự đại, cho mình là giỏi hơn mọi người; trái lại phải học hỏi điều hay, điều
tốt ở mọi người…, Cán bộ và đảng viên có quyết tâm làm như thế thì công tác Mặt
trận sẽ tiến bộ nhiều”.
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt
động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của tầng
lớp nhân dân.
+ Thành lập MTDTTN là để thực hiện đại đoàn
kết toàn dân, song khối đại đoàn kết đó chỉ có thể thực hiện bền chặt và lâu dài
khi có sự thống nhất cao độ về mục tiêu và lợi ích.
+ Mục đích chung của MTDTTN được Hồ Chí Minh xác định cụ thể phù hợp với
từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực lượng dân tộc vào
khối đại đoàn kết. Như vậy, độc lập, tự do là nguyên tắc bất di bất dịch, là
ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp…, vào
trong Mặt trận.
+ Trên cơ sở xác định lợi ích tối cao của
dân tộc, những quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân cũng được Hồ Chí Minh
kết tinh vào tiêu chí của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa là độc lập, tự do, hạnh phúc. Các tiêu chí
này được Đảng và Hồ Chí Minh cụ thể trong từng lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội…, phù hợp với mọi tầng lớp, từng đối tượng trong mỗi thời kỳ lịch
sử.
- Mặt trận dân chủ thống nhất phải hoạt
động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi
và bền vững
+ Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức
chính trị - xã hội rộng lớn của cả dân tộc bao gồm nhiều gia cấp, tầng lớp,
đảng phái…, với nhiều lợi ích khác nhau. Do vậy, hoạt động của MTDTTN phải theo
nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
+ Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi
tất cả vấn đề của Mặt trận đều phải được tham gia để tất cả các thành viên cùng
nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ
hình thức.
+ Đảng là lực lượng lãnh đạo Mặt trận,
nhưng cũng là thành viên của Mặt trận. Do vậy, tất cả, mọi chủ trương, chính
sách của mình, Đảng phải có trách nhiệm trình bày trước Mặt trận, cùng với các
thành viên khác của Mặt trận bàn bạc, hiệp thương dân chủ.
+ Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân
chủ phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối
quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, lợi ích chung và lợi ích
riêng…
+ Phải làm cho tất cả các thành viên trong
Mặt trận thấm nhuần lợi ích chung, lợi ích tối cao của dân tộc, phải đặt lợi
ích chung lên trên hết…
+ Trong quá trình hoạt động Mặt trận cần
quan tâm xem xét, giải quyết thỏa đáng, thấu tình đạt lý mối quan hệ lợi ích
giữa các thành viên bằng việc thực hiện nghiêm túc nguyên tắc hiệp thương dân
chủ.
+ Giải quyết mối quan hệ trong MTDTTN sẽ
góp phần củng cố sự bền chặt tạo sự đồng thuận nhất trí cao và thực hiện mục
tiêu: “Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”.
- Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn
kết chặt chẽ lâu dài, đoàn kết thực sự, chân thành, thân ái giúp đỡ lẫn nhau
cùng tiến bộ.
+ Giữa các thành viên của Mặt trận, bên
cạnh những điểm tương đồng vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn bạc, hiệp
thương dân chủ để thu hẹp những nhân tố khác biệt, cục bộ, nhân lên những nhân
tố tích cực, nhân tố chung, đi đến thống nhất, đoàn kết.
+ Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu
đồng tồn dị” – lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt.
+ Người nêu rõ: “Đoàn kết phải gắn với đấu
tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết”. Người thường xuyên căn dặn mọi người
cần phải khắc phục tình trạng đoàn kết xuôi chiều, đồng thời phải có tấm lòng
nhân ái, khoan dung độ lượng, phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình…, nhằm
củng cố và mở rộng khối đoàn kết trong MTDTTN.
+ Hồ Chí Minh viết: “Đoàn kết thực sự nghĩa
là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phái nhất trí. Đoàn kết thực sự
nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình
những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân.
Tóm lại, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì toàn dân cần đoàn kết lâu dài, đoàn
kết thực sự và cùng nhau tiến bộ”.
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá
trình xây dựng, củng cố và phát triển MTDTTN, một mặt, Đảng ta luôn đấu tranh
chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh thủ tất cả mọi lực lượng
có thể tranh thủ được vào Mặt trận; mặt khác, luôn đề phòng và đấu tranh chống
mọi biểu hiện của khuynh hướng đoàn kết một chiều, vô nguyên tắc, đoàn kết mà
không có đấu tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét