1. Xây dựng Nhà
nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
- Hồ Chí Minh có quan điểm nhất quán
về xây dựng một Nhà nước mới ở Việt Nam là một Nhà nước do nhân dân lao động
làm chủ. Đây là quan điểm cơ bản nhất của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà do Người sáng lập.
- Năm 1927, trong cuốn Đường cách
mệnh Người chỉ rõ: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh thì nên làm đến nơi,
nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để
trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới
được hạnh phúc”. Sau khi giành độc lập Người khẳng định: “Nước ta là nước dân
chủ, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân… nói tóm
lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Đó là điểm khác nhau giữa nhà nước
ta với nhà nước bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử.
a)
Nhà nước của dân
- Quan điểm nhất quán của Hồ Chí
Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong Nhà nước và trong xã hội đều thuộc
về nhân dân. Quan điểm này của Hồ Chí Minh được thể hiện trong các bản Hiến
pháp do Người lãnh đạo soạn thảo. Điều 1 Hiến pháp nêu rõ: “Nước Việt Nam là
một nước Dân chủ Cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể
nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp,
tôn giáo”. Điều 32 nêu rõ: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra
toàn dân phúc quyết…”. Thực chất đó là chế độ trưng cầu ý dân, một hình thức
dân chủ đề ra khá sớm ở nước ta.
Nhà nước là của dân thì mọi người dân là chủ,
người dân có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ
tuân theo pháp luật.
- Nhân dân lao động làm chủ Nhà nước
thì dẫn đến một hệ quả là nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước. Quyền làm chủ
và đồng thời cũng là quyền kiểm soát của nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có
quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào nếu
những đại biểu đó tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
- Hồ Chí Minh đã nêu lên quan điểm dân
là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân, còn dân
làm chủ có nghĩa là xác định quyền và nghĩa vụ của nhân dân. Nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền
làm chủ của dân, để cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống
quyền lực của xã hội.
b) Nhà nước do
dân
-
Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, do dân làm chủ. Do đó Người yêu cầu tất
cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với dân, lắng
nghe ý kiến và chụi sự kiểm soát của nhân dân. “Nếu chính phủ làm hại dân thì
dân có quyền đuổi chính phủ”.
-
Người nêu rõ quyền của dân, Nhà nước do dân tạo ra và nhân dân tham gia quản lí
là ở chỗ:
+
Toàn bộ công dân bầu ra Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, cơ
quan duy nhất có quyền lập pháp (Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội và Hội đồng Chính phủ).
+
Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lí xã hội đều thể hiện ý chí
của dân (thông qua Quốc hội do dân bầu ra).
c) Nhà nước vì
dân
-
Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục
tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích
nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc quyền, đặc lợi
nào. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm,
việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh”.
- Một nhà nước vì dân, theo quan điểm của Hồ Chí
Minh, là từ Chủ tịch nước đến công chức bình thường đều là công bộc, đày tớ của
nhân dân. Là người phục vụ, nhưng cán bộ nhà nước đồng thời cũng là người lãnh
đạo, hướng dẫn nhân dân. Cán bộ là đày tớ của nhân dân là phải trung thành, tận
tuỵ, cần kiệm liêm chính…là người lãnh đạo phải có trí tuệ hơn người, sáng
suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi với dân…cán bộ phải vừa có đức vừa có tài.
2. Quan điểm của
Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân
và tính dân tộc của Nhà nước
a)
Về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là Nhà nước của dân, do dân, vì dân nhưng tuyệt nhiên
nó không phải là “Nhà nước toàn dân” hiểu theo nghĩa là nhà nước phi giai cấp.
Nhà nước Việt Nam mới, theo quan điểm của Hồ Chí Minh là một Nhà nước mang bản
chất của giai cấp công nhân. Vì:
Một là, Nhà nước do Đảng Công sản Việt
Nam lãnh đạo. Điều này thể hiện:
- Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà
nước giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân.
-
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp, đó là:
+ Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan
điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật, chính sách, kế hoạch.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động
của các tổ chức đảng và đảng viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác
kiểm tra.
Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước
ta thể hiện ở tính định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước.
Ba là, bản chất giai cấp công nhân của
Nhà nước ta thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên
tắc tập trung dân chủ, Người nhấn mạnh phải phát huy cao độ dân chủ, đồng thời
phát huy cao độ tập trung, Nhà nước phải tập trung thống nhất quyền lực để tất
cả mọi quyền lực vào tay nhân dân.
b) Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân
dân, tính dân tộc của Nhà nước
- Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc
đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam.
- Nhà nước ta vừa mang bản chất giai cấp
công nhân vừa có tính nhân dân và tính dân tộc vì nó lấy lợi ích của dân tộc
làm nền tảng và bảo vệ lợi ích cho nhân dân. Bản chất của vấn đề này là ở chỗ,
Hồ Chí Minh khẳng định lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động và của toàn thể dân tộc là một. Nhà nước ta không những thể hiện ý chí của
giai cấp công nhân mà còn thể hiện ý chí của nhân dân và toàn dân tộc.
- Trong thực tế, Nhà nước ta đã đứng ra
làm nhiệm vụ của cả dân tộc giao phó, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng
chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát
triển tiến bộ của thế giới.
3. Xây dựng Nhà
nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
Hồ Chí Minh đã sớm thấy được tầm quan
trọng của Hiến pháp và pháp luật trong quản lý xã hội. Năm 1919 thay mặt những
người yêu nước Việt Nam đang hoạt động tại Pháp Người gửi tới Hội nghị Vecxây
bản Yêu sách của nhân dân An Nam. Bản Yêu sách đó nêu ra yêu cầu: “Cải cách nền
pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo
đảm về mặt pháp luật như người Âu châu; xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt dùng
làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An
Nam”; “Thay thế chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”. Trong bài Việt
Nam yêu cầu ca có câu:
“Hai
xin phép luật sửa sang,
Người Tây, người
Việt hai phương cùng đồng.
…
Bẩy xin hiến
pháp ban hành,
Trăm điều phải
có thần linh pháp quyền”.
Tư tưởng về một Nhà nước Pháp quyền
có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ là giá trị đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư
tưởng đó được thể hiện ở một số nội dung chính sau:
a.
Xây dựng một Nhà nước hợp pháp, hợp hiến
- Ngay sau khi giành chính quyền Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập
tuyên bố với Quốc dân đồng bào và thế giới về sự khai sinh Nhà nước Việt Nam
mới. Nhờ đó, Chính phủ lâm thời có địa vị hợp pháp và Tuyên ngôn độc lập của
Việt Nam thành một văn kiện nổi tiếng.
- Sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, trong
phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đã đề nghị tổ chức Tổng
tuyển cử để lập ra Quốc hội rồi từ đó lập ra Chính phủ, các cơ quan và bộ máy
chính thức khác của Nhà nước mới.
Cuộc Tổng tuyển cử
được tiến hành thắng lợi ngày 6 – 1 – 1946 với chế độ phổ thong đầu phiếu, trực
tiếp và bỏ phiếu kín. Ngày 2 – 3 – 1946, Quốc hội khoá I nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà đã họp phiên đầu tiên lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính
thức của Nhà nước. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên.
Đây là Chính phủ có đầy đủ tư cách pháp
lý để giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề đối nội và đối ngoại của
nước ta.
b)
Hoạt động quản lý Nhà nước bằng Hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa pháp luật
vào cuộc sống
- Quản lý Nhà nước là quản lý bằng
bộ máy và bằng nhiều biện pháp khác nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng hệ
thống pháp luật. Pháp luật là bà đỡ cho dân chủ. Mọi quyền dân chủ của người
dân phải được thể chế hoá bằng Hiến pháp và pháp luật; ngược lại hệ thống pháp
luật phải đảm bảo quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực
tế.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa bảo đảm được việc thực hiện
quyền lực của nhân dân. Ngay năm 1919, Người đã khẳng định vai trò của pháp
luật là: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” - sức mạnh do con người và vì
con người. Sáng lập ra Nhà nước dân chủ mới Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng là người
có công lớn trong lập Hiến và lập pháp.
- Người chăm lo đưa pháp luật vào đời
sống, tạo ra cơ chế đảm bảo cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám
sát việc thi hành đó trong các cơ quan Nhà nước và trong nhân dân.
- Để tuyên truyền, đưa pháp luật vào đời
sống xã hội, Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức
làm chủ, phát triển văn hoá chính trị và khuyến khích nhân dân tham gia vào
công việc Nhà nước, khắc phục mọi thứ dân chủ hình thức.Người nhắc nhở cán bộ
phải lo “làm sao cho dân được biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ
của mình, dám nói, dám làm”.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nêu
gương trong việc khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công việc của Chính
phủ và yêu cầu cán bộ, các cấp các ngành phải gương mẫu trong việc tuân thủ
pháp luật.
c)
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài
- Hồ Chí Minh luôn đề cao vị trí,
vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức. Người coi cán bộ nói chung “là cái gốc
của mọi công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém”.
- Yêu cầu tổng quát nhất đối với đội
ngũ cán bộ, đảng viên theo Bác đó là những người vừa có đức vừa có tài, trong
đó đức là gốc; đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý và có hiệu quả.
-
Những yêu cầu cụ thể của Người đối với cán bộ, công chức như sau:
Một là, phải tuyệt đối trung thành với
cách mạng.
Hai là, hăng hái,thành thạo công việc,
giỏi chuyên môn nghiệp vụ.
Ba là, có mối liên hệ mật thiết với nhân
dân.
Bốn là, cán bộ,
công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách
nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không
nản”.
Năm là, phải thường xuyên tự phê bình và
phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà
nước.
4. Xây dựng Nhà
nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả
a)
Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh thường chỉ rõ những tiêu cực sau
đây và nhắc nhở mọi người để phòng và khắc phục:
- Đặc quyền, đặc lợi
Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh
đòi hỏi phải tẩy trừ những thói cậy mình là người trong cơ quan chính quyền để
cửa quyền, hách dịch với dân, lạm quyền, đồng thời để vơ vét tiền của, lợi dụng
chức quyền để làm lợi cho cá nhân mình, làm như thế tức là sa vào chủ nghĩa các
nhân
- Tham ô, lãng phí, quan liêu
Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan
liêu là “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, thứ giặc nguy hiểm hơn giặc ngoại
xâm. Quan điểm của Hồ Chí Minh là: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý
hay không cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến… Tội lỗi ấy cũng
nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”.
Ngày 27 – 11 – 1946, Hồ Chí Minh đã ký
sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ với mức từ 5 năm đến 20 năm
tù khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ. Ngày 26 – 1 – 1946, Hồ
Chí Minh ký lệnh nói rõ tội tham ô, trộm cắp của công dân là tội tử hình.
Lãng phí là một căn bệnh mà Hồ Chí Minh
lên án gay gắt. Chính bản thân Người luôn là tấm gương, tích cực thực hành
chống lãng phí trong cuộc sống và công việc hàng ngày. Lãng phí được Hồ Chí
Minh xác định là lãng phí sức lao động, lãng phí thời giờ, lãng phí tiền của.
Chống lãng phí là biện pháp để tiết kiệm, một vấn đề quốc sách của mọi quốc
gia.
Bệnh quan liêu: đối với công việc thì
trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không đi sâu vào từng vấn đề.
Bệnh quan liêu làm cho chúng ta chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo
trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn… thành thử có mắt mà không thấy
suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà
không nắm vững… Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che trở cho tham ô,
lãng phí. Vì vậy, đây là bệnh gốc sinh ra bệnh tham ô, lãng phí; muốn trừ sạch
bệnh tham ô, lãng phí thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu.
- “Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”
Hồ Chí Minh kịch kiệt lên án tệ kết bè, kéo
cánh, tệ nạn bà con bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức
nọ. Người có tài đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng
việc nước là việc công, chứ không phải là việc riêng gì dòng họ của ai.
Trong chính quyền, còn hiện tượng gây
mất đoàn kết, không biết cách làm cho mọi người hoà thận với nhau, còn có người
“bênh vực lớp này, chống lại lớp khác”.
Ngoài bệnh cậy thế, có người còn kiêu
ngạo, “tưởng mình ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi… Cử chỉ lúc nào
cũng vác mặt quan cách mạng”, làm mất uy tín của Chính phủ.
b)
Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức
cách mạng
Hồ Chí Minh đã kết
hợp một cách nhuần nhuyễn giữa quản lý xã hội bằng pháp luật với phát huy những
truyền thống tốt đẹp trông đời sống cộng đồng người Việt Nam được hình thành
qua hang nghìn năm lịch sử (kết hợp nhuần nhuyễn cả “đức trị” và “pháp trị”).
Trong việc thực thi quyền hạn và trách
nhiệm của mình với cương vị là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh bao giờ cũng thể hiện
là một người sáng suốt, thống nhất hài hoà giữa lý trí và tình cảm, nghiêm
khắc, bao dung, nhân ái nhưng không bao che cho những sai lầm, khuyết điểm của
bất cứ ai. Hồ Chí Minh yêu cầu pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất
liêm, bất kỳ kẻ đó ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì.
Hồ Chí Minh dùng sức mạnh uy tín của
mình để cảm hoá những người có lỗi lầm, kéo họ đi với cách mạng, giáo dục những
người mắc khuyết điểm để họ tránh phạm pháp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét