Thứ Sáu, 11 tháng 7, 2014

QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN

1. Xây dựng Nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
            - Hồ Chí Minh có quan điểm nhất quán về xây dựng một Nhà nước mới ở Việt Nam là một Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Đây là quan điểm cơ bản nhất của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà  do Người sáng lập.
            - Năm 1927, trong cuốn Đường cách mệnh Người chỉ rõ: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh thì nên làm đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Sau khi giành độc lập Người khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân… nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Đó là điểm khác nhau giữa nhà nước ta với nhà nước bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử.
a) Nhà nước của dân
            - Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong Nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Quan điểm này của Hồ Chí Minh được thể hiện trong các bản Hiến pháp do Người lãnh đạo soạn thảo. Điều 1 Hiến pháp nêu rõ: “Nước Việt Nam là một nước Dân chủ Cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Điều 32 nêu rõ: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân phúc quyết…”. Thực chất đó là chế độ trưng cầu ý dân, một hình thức dân chủ đề ra khá sớm ở nước ta.
             Nhà nước là của dân thì mọi người dân là chủ, người dân có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
            - Nhân dân lao động làm chủ Nhà nước thì dẫn đến một hệ quả là nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước. Quyền làm chủ và đồng thời cũng là quyền kiểm soát của nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào nếu những đại biểu đó tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
            - Hồ Chí Minh đã nêu lên quan điểm dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân, còn dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền và nghĩa vụ của nhân dân.  Nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội.
b) Nhà nước do dân
   - Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, do dân làm chủ. Do đó Người yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với dân, lắng nghe ý kiến và chụi sự kiểm soát của nhân dân. “Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ”.
   - Người nêu rõ quyền của dân, Nhà nước do dân tạo ra và nhân dân tham gia quản lí là ở chỗ:
   + Toàn bộ công dân bầu ra Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, cơ quan duy nhất có quyền lập pháp (Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng Chính phủ).
   + Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lí xã hội đều thể hiện ý chí của dân (thông qua Quốc hội do dân bầu ra).
c) Nhà nước vì dân
   - Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc quyền, đặc lợi nào. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh”.
   - Một nhà nước vì dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ Chủ tịch nước đến công chức bình thường đều là công bộc, đày tớ của nhân dân. Là người phục vụ, nhưng cán bộ nhà nước đồng thời cũng là người lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân. Cán bộ là đày tớ của nhân dân là phải trung thành, tận tuỵ, cần kiệm liêm chính…là người lãnh đạo phải có trí tuệ hơn người, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi với dân…cán bộ phải vừa có đức vừa có tài.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước
a) Về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là Nhà nước của dân, do dân, vì dân nhưng tuyệt nhiên nó không phải là “Nhà nước toàn dân” hiểu theo nghĩa là nhà nước phi giai cấp. Nhà nước Việt Nam mới, theo quan điểm của Hồ Chí Minh là một Nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân. Vì:
Một là, Nhà nước do Đảng Công sản Việt Nam lãnh đạo. Điều này thể hiện:
- Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân.
-  Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp, đó là:
+ Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật, chính sách, kế hoạch.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra.
Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước.
Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ, Người nhấn mạnh phải phát huy cao độ dân chủ, đồng thời phát huy cao độ tập trung, Nhà nước phải tập trung thống nhất quyền lực để tất cả mọi quyền lực vào tay nhân dân.
b) Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước
- Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam.
- Nhà nước ta vừa mang bản chất giai cấp công nhân vừa có tính nhân dân và tính dân tộc vì nó lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng và bảo vệ lợi ích cho nhân dân. Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn thể dân tộc là một. Nhà nước ta không những thể hiện ý chí của giai cấp công nhân mà còn thể hiện ý chí của nhân dân và toàn dân tộc.
- Trong thực tế, Nhà nước ta đã đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc giao phó, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế giới.
3. Xây dựng Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
Hồ Chí Minh đã sớm thấy được tầm quan trọng của Hiến pháp và pháp luật trong quản lý xã hội. Năm 1919 thay mặt những người yêu nước Việt Nam đang hoạt động tại Pháp Người gửi tới Hội nghị Vecxây bản Yêu sách của nhân dân An Nam. Bản Yêu sách đó nêu ra yêu cầu: “Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm về mặt pháp luật như người Âu châu; xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam”; “Thay thế chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”. Trong bài Việt Nam yêu cầu ca có câu:
“Hai xin phép luật sửa sang,
Người Tây, người Việt hai phương cùng đồng.
Bẩy xin hiến pháp ban hành,
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.                                              
            Tư tưởng về một Nhà nước Pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ là giá trị đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó được thể hiện ở một số nội dung chính sau:
a. Xây dựng một Nhà nước hợp pháp, hợp hiến
­­            - Ngay sau khi giành chính quyền Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố với Quốc dân đồng bào và thế giới về sự khai sinh Nhà nước Việt Nam mới. Nhờ đó, Chính phủ lâm thời có địa vị hợp pháp và Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam thành một văn kiện nổi tiếng.
- Sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đã đề nghị tổ chức Tổng tuyển cử để lập ra Quốc hội rồi từ đó lập ra Chính phủ, các cơ quan và bộ máy chính thức khác của Nhà nước mới.
Cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành thắng lợi ngày 6 – 1 – 1946 với chế độ phổ thong đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Ngày 2 – 3 – 1946, Quốc hội khoá I nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã họp phiên đầu tiên lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên  hiệp đầu tiên.
Đây là Chính phủ có đầy đủ tư cách pháp lý để giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề đối nội và đối ngoại của nước ta.
b) Hoạt động quản lý Nhà nước bằng Hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào cuộc sống
            - Quản lý Nhà nước là quản lý bằng bộ máy và bằng nhiều biện pháp khác nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng hệ thống pháp luật. Pháp luật là bà đỡ cho dân chủ. Mọi quyền dân chủ của người dân phải được thể chế hoá bằng Hiến pháp và pháp luật; ngược lại hệ thống pháp luật phải đảm bảo quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế.
            - Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa bảo đảm được việc thực hiện quyền lực của nhân dân. Ngay năm 1919, Người đã khẳng định vai trò của pháp luật là: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” - sức mạnh do con người và vì con người. Sáng lập ra Nhà nước dân chủ mới Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng là người có công lớn trong lập Hiến và lập pháp.
- Người chăm lo đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế đảm bảo cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đó trong các cơ quan Nhà nước và trong nhân dân.
- Để tuyên truyền, đưa pháp luật vào đời sống xã hội, Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hoá chính trị và khuyến khích nhân dân tham gia vào công việc Nhà nước, khắc phục mọi thứ dân chủ hình thức.Người nhắc nhở cán bộ phải lo “làm sao cho dân được biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”.
            - Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công việc của Chính phủ và yêu cầu cán bộ, các cấp các ngành phải gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật.
c) Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài
            - Hồ Chí Minh luôn đề cao vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức. Người coi cán bộ nói chung “là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
            - Yêu cầu tổng quát nhất đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên theo Bác đó là những người vừa có đức vừa có tài, trong đó đức là gốc; đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý và có hiệu quả.
            - Những yêu cầu cụ thể của Người đối với cán bộ, công chức như sau:
Một là, phải tuyệt đối trung thành với cách mạng.
Hai là, hăng hái,thành thạo công việc, giỏi chuyên môn nghiệp vụ.
Ba là, có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
Bốn là, cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”.
Năm là, phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước.
4. Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả
a) Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh thường chỉ rõ những tiêu cực sau đây và nhắc nhở mọi người để phòng và khắc phục:
- Đặc quyền, đặc lợi
Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh đòi hỏi phải tẩy trừ những thói cậy mình là người trong cơ quan chính quyền để cửa quyền, hách dịch với dân, lạm quyền, đồng thời để vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền để làm lợi cho cá nhân mình, làm như thế tức là sa vào chủ nghĩa các nhân
- Tham ô, lãng phí, quan liêu
Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan liêu là “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, thứ giặc nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Quan điểm của Hồ Chí Minh là: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến… Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”.
Ngày 27 – 11 – 1946, Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ với mức từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ. Ngày 26 – 1 – 1946, Hồ Chí Minh ký lệnh nói rõ tội tham ô, trộm cắp của công dân là tội tử hình.
Lãng phí là một căn bệnh mà Hồ Chí Minh lên án gay gắt. Chính bản thân Người luôn là tấm gương, tích cực thực hành chống lãng phí trong cuộc sống và công việc hàng ngày. Lãng phí được Hồ Chí Minh xác định là lãng phí sức lao động, lãng phí thời giờ, lãng phí tiền của. Chống lãng phí là biện pháp để tiết kiệm, một vấn đề quốc sách của mọi quốc gia.
Bệnh quan liêu: đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không đi sâu vào từng vấn đề. Bệnh quan liêu làm cho chúng ta chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn… thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững… Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che trở cho tham ô, lãng phí. Vì vậy, đây là bệnh gốc sinh ra bệnh tham ô, lãng phí; muốn trừ sạch bệnh tham ô, lãng phí thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu.
- “Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”
Hồ Chí Minh kịch kiệt lên án tệ kết bè, kéo cánh, tệ nạn bà con bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng việc nước là việc công, chứ không phải là việc riêng gì dòng họ của ai.
Trong chính quyền, còn hiện tượng gây mất đoàn kết, không biết cách làm cho mọi người hoà thận với nhau, còn có người “bênh vực lớp này, chống lại lớp khác”.
Ngoài bệnh cậy thế, có người còn kiêu ngạo, “tưởng mình ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi… Cử chỉ lúc nào cũng vác mặt quan cách mạng”, làm mất uy tín của Chính phủ.
b) Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng
Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa quản lý xã hội bằng pháp luật với phát huy những truyền thống tốt đẹp trông đời sống cộng đồng người Việt Nam được hình thành qua hang nghìn năm lịch sử (kết hợp nhuần nhuyễn cả “đức trị” và “pháp trị”).
Trong việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình với cương vị là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh bao giờ cũng thể hiện là một người sáng suốt, thống nhất hài hoà giữa lý trí và tình cảm, nghiêm khắc, bao dung, nhân ái nhưng không bao che cho những sai lầm, khuyết điểm của bất cứ ai. Hồ Chí Minh yêu cầu pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ đó ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì.
Hồ Chí Minh dùng sức mạnh uy tín của mình để cảm hoá những người có lỗi lầm, kéo họ đi với cách mạng, giáo dục những người mắc khuyết điểm để họ tránh phạm pháp.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét